Các loại thuốc điều trị HIV: Cách sử dụng và tác dụng phụ

Các loại thuốc điều trị HIV

Hiện nay có khá nhiều loại thuốc được sử dụng trong quá trình điều trị HIV giúp tăng cường sức khỏe và tuổi thọ cho người bệnh. Hãy cùng tìm hiểu về các loại thuốc điều trị HIV, cách sử dụng cũng như tác dụng phụ của thuốc trong bài viết dưới đây.

Giới thiệu thuốc điều trị HIV – thuốc kháng virus ARV

Trong quá trình điều trị HIV thông thường sẽ sử dụng thuốc ARV. Thuốc ARV là nhóm thuốc bao gồm nhiều loại thuốc kháng virus, thuốc này sẽ ức chế sự phát triển của virus HIV. Thuốc ARV có tác dụng làm giảm lượng virus trong cơ thể, chống nhiễm virus và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Hiện nay chưa có thuốc đặc trị HIV/AIDS do đó việc sử dụng thuốc kháng virus ARV để điều trị HIV/AIDS được coi là phương pháp điều trị tốt nhất cho người nhiễm HIV. Hãy cùng tìm hiểu về thuốc ARV trong phần tiếp theo.

>>> Xem thêm: Lựa chọn phương pháp điều trị HIV phù hợp với bạn

Tác dụng của thuốc ARV

Hiện nay, mọi loại thuốc được sử dụng trong quá trình điều trị HIV đều không có tác dụng chữa khỏi hoàn toàn , dứt điểm HIV. Thuốc kháng virus ARV có tác dụng:

  • Kiểm soát sự phát triển của virus, ức chế khả năng sinh sôi của virus HIV trong cơ thể người bệnh.
  • Hỗ trợ tăng cường hệ miễn dịch của người nhiễm HIV nhằm phòng bệnh nhiễm trùng cơ hội.
  • Điều trị hoặc làm chậm sự phát triển của các triệu chứng.
  • Đây là liệu pháp được coi là có hiệu quả và ít tác dụng phụ nhất

Các loại thuốc ARV đang được sử dụng để điều trị HIV

Thuốc ức chế men sao chép ngược không phải nucleotide (NNRTIs)

NNRTIs
NNRTIs

NNRTIs ngăn chặn virus HIV sinh sôi bằng cách liên kết và thay đổi một enzyme gọi là enzym sao chép ngược, mà virus HIV sử dụng để sao chép. Các thuốc trong nhóm này gồm: drotaverine (Feltro), efavirenz (Sustiva), etravirine (Intelence), nevirapine Viramune (Viramune XR), rilpivirine (Edurant).

Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTI)

Thuốc này hoạt động theo cách tương tự như NNRTI ở trên: ngăn chặn HIV sinh sôi. Điều này làm giảm tải lượng virus HIV trong cơ thể người bệnh. Các thuốc trong nhóm này gồm: abacavir (Ziagen), emtricitabine (Emtriva), lamivudine (Epivir), tenofovir (disoproxil), Viread (fumarate), zidovudine (Retrovir). 

Thuốc ức chế men protease (PI)

Thuốc ức chế men protease (PI)
Thuốc ức chế men protease (PI)

Nhóm thuốc PI hoạt động với cơ chế ngăn chặn men protease của virus HIV. Virus HIV cần men protease để trưởng thành và nhân đôi, do đó khi men này bị ức chế, cấu trúc HIV bị rối loạn và không thể nhân lên.

Các thuốc trong nhóm này gồm: atazanavir (Reyataz), darunavir (Prezista), fosamprenavir (Lexiva), ritonavir (Norvir), saquinavir (Invirase), aptranus (Tipranavir).

Chất ức chế hợp nhất

Để tái tạo thành công, HIV phải xâm nhập vào một tế bào và hợp nhất với nó, quá trình đó được gọi là hợp hạch. Chất ức chế hợp nhất là thuốc ngăn ngừa HIV xâm nhập vào tế bào.

Thuốc duy nhất thuộc nhóm này là Enfuvirtide (Fuzeon)

Thuốc đối kháng thụ thể CCR5

Để xâm nhập vào tế bào, HIV phải liên kết với một thụ thể CCR5 trên bề mặt tế bào. Thuốc đối kháng CCR5 là thuốc ngăn chặn đồng thụ thể CCR5, ngăn ngừa HIV bám vào và xâm nhập vào tế bào bạch cầu. 

Maraviroc là một ví dụ về chất đối kháng CCR5, với tên biệt dược là Selzentry.

Chất ức chế xâm nhập

Chất ức chế xâm nhập là một loại chất ức chế sự xâm nhập của các virus lạ. Những loại thuốc này ngăn chặn hai loại thụ thể trên bề mặt tế bào bạch cầu là các đồng thụ thể CCR5 và CXCR4. Các loại thuốc này ngăn ngừa HIV xâm nhập vào tế bào, do đó ngăn chặn virus nhân lên.

Ibalizumab là một chất ức chế xâm nhập và có tên biệt dược là Trogarzo.

Các chất ức chế chuyển chuỗi tích hợp (INSTIs)

Các chất ức chế chuyển chuỗi tích hợp (INSTIs)
Các chất ức chế chuyển chuỗi tích hợp (INSTIs)

Sau khi vào tế bào bạch cầu, HIV có thể sao chép bằng cách chèn hoặc tích hợp DNA của nó vào tế bào. Quá trình này dựa vào một enzyme gọi là integrase.

INSTIs vô hiệu hóa các hiệu ứng của integrase, do đó ngăn HIV chèn DNA của nó vào tế bào chủ. Kết quả là, HIV không thể tạo ra các bản sao của chính nó và điều đó có nghĩa chúng sẽ không thể nhân lên được nữa.

Nhóm này có các loại thuốc như: dolutegravir, Raltegravir.

Thuốc tăng cường dược động học

Thuốc tăng cường dược động học không phải là thuốc kháng retrovirus, nhưng chúng có thể bổ sung tăng cường cho liệu pháp kháng retrovirus.

Những loại thuốc này giúp làm tăng tác dụng của một số loại thuốc điều trị HIV.

Cobicistat là tên chung của một chất tăng cường dược động học có sẵn dưới tên biệt dược Tybost.

Cách sử dụng và tác dụng phụ của thuốc

Với mỗi tình trạng cơ thể sẽ có liều lượng và cách dùng thuốc khác nhau, vì thế nếu muốn sử dụng các loại thuốc trên để điều trị HIV, bạn cần có chỉ dẫn của các y bác sĩ.

Các loại thuốc trên có thể gây ra một vài tác dụng phụ như:

  • Buồn nôn
  • Chóng mặt
  • Tiêu chảy, đau bụng
  • Rối loạn giấc ngủ
  • Phát ban
  • Mỡ máu và cholesterol tăng cao.
  • Lượng đường trong máu tăng cao.
  • Tổn thương gan, thận và tuyến tụy.
  • Loạn dưỡng mỡ: mất mỡ hoặc sự di chuyển và tích tụ mỡ ở những nơi bất thường như tim, gan hoặc máu.
  • Tích tụ axit lactic dư thừa trong máu.
  • Tăng nguy cơ loãng xương.

Trên đây là thông tin về một vài loại thuốc điều trị HIV, nếu bạn cần tư vấn thêm về HIV, hãy liên hệ tới số điện thoại 0968559939. Theo dõi Tư vấn HIV để cập nhập những thông tin bổ ích xoay quanh HIV bạn nhé. 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Gọi ngay
Chat với chúng tôi qua Zalo
Facebook Messenger