HIV ở trẻ em: Chẩn đoán và điều trị

HIV ở trẻ em: Chẩn đoán và điều trị

Hầu hết mọi người đều sợ mắc phải HIV vì hiện nay chưa có thuốc điều trị triệt để loại virus này. HIV còn đặc biệt nguy hiểm với trẻ em vì chúng còn khá non nớt, sức đề kháng yếu,… Việc chẩn đoán và điều trị HIV từ sớm ở trẻ em là rất quan trọng. Dưới đây là những thông tin về HIV ở trẻ em: chẩn đoán và điều trị.

Chẩn đoán HIV ở trẻ em

Hơn 95% trẻ em bị nhiễm virus trong thời kỳ chu sinh từ mẹ sang con. Lây truyền qua truyền máu hay qua đường tình dục ít gặp hơn rất nhiều. Để chẩn đoán HIV ở trẻ em trên 18 tháng tuổi có thể phải tiến hành 2 xét loại xét nghiệm, bao gồm xét nghiệm HIV sàng lọc và xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV.

>>> Xem thêm: Trẻ em nhiễm HIV sống được bao lâu nếu không được điều trị?

Xét nghiệm HIV sàng lọc

Cũng tương tự như những loại xét nghiệm khác, xét nghiệm HIV sàng lọc sẽ cho ra kết quả âm tính hoặc dương tính. Nếu kết quả xét nghiệm sàng lọc âm tính: người bệnh sẽ được tư vấn và trả lời kết quả ngay, bên cạnh đó cũng được cung cấp thông tin về thời kỳ cửa sổ. Trường hợp các đối tượng thuộc nhóm nguy cơ cao sẽ được tư vấn về các biện pháp dự phòng nhiễm HIV, đồng thời hẹn tái xét nghiệm HIV sau 6 tháng;

Nếu kết quả xét nghiệm sàng lọc dương tính: người bệnh tiếp tục tiến hành xét nghiệm khẳng định để chẩn đoán có bị nhiễm HIV không.

Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV

Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV
Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV

Người bệnh có xét nghiệm HIV sàng lọc dương tính sẽ được làm tiếp xét nghiệm khẳng định tình trạng nhiễm HIV. Xét nghiệm này gồm 2 phương pháp chính là xét nghiệm huyết thanh học và xét nghiệm sinh học phân tử.

  • Xét nghiệm huyết thanh học thường áp dụng với người lớn và trẻ em trên 18 tháng tuổi. Phương pháp này nhằm phát hiện sự hiện diện của kháng thể hoặc kháng nguyên HIV có trong máu.
  • Xét nghiệm sinh học phân tử thường sử dụng đối với trẻ em phơi nhiễm HIV hoặc trẻ em dưới 18 tháng tuổi có xét nghiệm kháng thể HIV dương tính; các trường hợp khác khó chẩn đoán bằng phương pháp huyết thanh học. Phương pháp này giúp phát hiện ADN/ARN của HIV tồn tại trong máu hoặc các dịch tiết.

Bên cạnh đó, cha mẹ cũng cần lưu ý đến các triệu chứng HIV trên trẻ em để theo dõi tình trạng sức khỏe và đưa trẻ tới các cơ sở y tế để thực hiện xét nghiệm sớm nhất có thể. Ở thời gian đầu, trẻ có thể không có các triệu chứng rõ ràng. Khi hệ thống miễn dịch của trẻ suy yếu, bạn có thể bắt đầu nhận thấy:

  • Thiếu năng lượng
  • Tăng trưởng và phát triển còi cọc
  • Sốt dai dẳng, đổ mồ hôi
  • Tiêu chảy thường xuyên
  • Hạch bạch huyết mở rộng
  • Nhiễm trùng lặp đi lặp lại hoặc kéo dài không đáp ứng tốt với điều trị
  • Sụt cân
  • Chậm phát triển

Điều trị HIV ở trẻ em

Điều trị HIV ở trẻ em
Điều trị HIV ở trẻ em

Nhiễm HIV ở trẻ em khác với nhiễm HIV ở người lớn về vấn đề lây truyền, diễn biến tự nhiên của động học virus, sự chín muồi của hệ miễn dịch và các biểu hiện lâm sàng. Nên lưu ý đến một số yếu tố khi sử dụng thuốc kháng retrovirus cho trẻ em: trẻ có thể đã tiếp xúc với AZT và các thuốc khác trong bụng mẹ, dược động học của thuốc tùy thuộc vào độ tuổi và trẻ em cần được quan tâm đặc biệt để giúp trẻ thích ứng với thuốc.

Các nhóm thuốc kháng retrovirus có thể sử dụng trong điều trị HIV ở trẻ em bao gồm:

Các chất ức chế sao chép ngược (NTRIs)

Nhóm thuốc này sẽ ngăn chặn virus HIV sinh sôi và phát triển trong cơ thể người bệnh. Điều này làm giảm tải lượng virus HIV trong cơ thể người bệnh. Các thuốc trong nhóm này gồm: abacavir (Ziagen), emtricitabine (Emtriva), lamivudine (Epivir), tenofovir (disoproxil), Viread (fumarate), zidovudine (Retrovir).

Thuốc ức chế men sao chép ngược non nucleotide (NNRTI)

Thuốc này ngăn chặn virus HIV sinh sôi bằng cách liên kết và thay đổi một enzyme gọi là enzym sao chép ngược, mà virus HIV sử dụng để sao chép. Các thuốc trong nhóm này gồm: drotaverine (Feltro), efavirenz (Sustiva), etravirine (Intelence), nevirapine Viramune (Viramune XR), rilpivirine (Edurant).

Thuốc ức chế men protease (PI)

Nhóm thuốc PI hoạt động với cơ chế ngăn chặn men protease của virus HIV. Virus HIV cần men protease để trưởng thành và nhân đôi, do đó khi men này bị ức chế, cấu trúc HIV bị rối loạn và không thể nhân lên.

Các thuốc trong nhóm này gồm: atazanavir (Reyataz), darunavir (Prezista), fosamprenavir (Lexiva), ritonavir (Norvir), saquinavir (Invirase), aptranus (Tipranavir).

Trong quá trình sử dụng các nhóm thuốc điều trị HIV trên cần theo dõi sát sao để biết rằng thuốc có hiệu quả với cơ thể trẻ hay không. Một đáp ứng điều trị tốt được ghi nhận bằng một sự ức chế lâu dài tải lượng virus dưới mức phát hiện. Không phải tất cả trẻ em nhiễm HIV đều đạt được sự ức chế virus hoàn toàn khi tiến hành điều trị và kháng thuốc là không hiếm do áp lực chọn lọc của đáp ứng miễn dịch kháng HIV cũng như trị liệu kháng retrovirus. Trong quá trình điều trị cần tuân thủ chỉ dẫn của bác sĩ để đạt hiệu quả tốt.

HIV ở trẻ em rất nguy hiểm, nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng lớn sức khỏe và tuổi thọ của trẻ. hãy phòng tránh lây nhiễm HIV cho trẻ bằng những cách tốt nhất có thể. Hãy liên hệ tới số điện thoại 0968 559 939 để được tư vấn, hỗ trợ thêm về HIV.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Gọi ngay
Chat với chúng tôi qua Zalo
Facebook Messenger